逐节对照
- Kinh Thánh Hiện Đại - Đầu tháng tư năm thứ hai mươi lăm của cuộc lưu đày—vào năm thứ mười bốn sau khi Giê-ru-sa-lem sụp đổ—tay Chúa Hằng Hữu đặt trên tôi.
- 新标点和合本 - 我们被掳掠第二十五年,耶路撒冷城攻破后十四年,正在年初,月之初十日,耶和华的灵(原文作“手”)降在我身上,他把我带到以色列地。
- 和合本2010(上帝版-简体) - 我们被掳的第二十五年,耶路撒冷城攻破后十四年,正在年初,某月初十,就在那一天,耶和华的手按在我身上,把我带到那里。
- 和合本2010(神版-简体) - 我们被掳的第二十五年,耶路撒冷城攻破后十四年,正在年初,某月初十,就在那一天,耶和华的手按在我身上,把我带到那里。
- 当代译本 - 在我们被掳的第二十五年,就是耶路撒冷沦陷的第十四年一月十日,耶和华的手按在我身上,祂带我到了那里。
- 圣经新译本 - 我们被掳后第二十五年,耶路撒冷城被攻陷后第十四年的年初;那月的初十日,正当那日,耶和华的手按在我身上;他把我带到那里去。
- 现代标点和合本 - 我们被掳掠第二十五年,耶路撒冷城攻破后十四年,正在年初,月之初十日,耶和华的灵 降在我身上,他把我带到以色列地。
- 和合本(拼音版) - 我们被掳掠第二十五年,耶路撒冷城攻破后十四年,正在年初,月之初十日,耶和华的灵 降在我身上,他把我带到以色列地。
- New International Version - In the twenty-fifth year of our exile, at the beginning of the year, on the tenth of the month, in the fourteenth year after the fall of the city—on that very day the hand of the Lord was on me and he took me there.
- New International Reader's Version - It was the 14th year after Jerusalem had been captured. We had been brought to Babylon as prisoners. It was the tenth day of a month near the beginning of the 25th year after that. On that day the power of the Lord came on me. He took me back to my land.
- English Standard Version - In the twenty-fifth year of our exile, at the beginning of the year, on the tenth day of the month, in the fourteenth year after the city was struck down, on that very day, the hand of the Lord was upon me, and he brought me to the city.
- New Living Translation - On April 28, during the twenty-fifth year of our captivity—fourteen years after the fall of Jerusalem—the Lord took hold of me.
- The Message - In the twenty-fifth year of our exile, at the beginning of the year on the tenth of the month—it was the fourteenth year after the city fell—God touched me and brought me here. He brought me in divine vision to the land of Israel and set me down on a high mountain. To the south there were buildings that looked like a city. He took me there and I met a man deeply tanned, like bronze. He stood at the entrance holding a linen cord and a measuring stick.
- Christian Standard Bible - In the twenty-fifth year of our exile, at the beginning of the year, on the tenth day of the month in the fourteenth year after Jerusalem had been captured, on that very day the Lord’s hand was on me, and he brought me there.
- New American Standard Bible - In the twenty-fifth year of our exile, at the beginning of the year, on the tenth of the month, in the fourteenth year after the city was taken, on this very day the hand of the Lord was upon me and He brought me there.
- New King James Version - In the twenty-fifth year of our captivity, at the beginning of the year, on the tenth day of the month, in the fourteenth year after the city was captured, on the very same day the hand of the Lord was upon me; and He took me there.
- Amplified Bible - In the twenty-fifth year of our exile [in Babylon], in the beginning of the year, on the tenth [day] of the month, in the fourteenth year after the city [of Jerusalem] was taken, on that [very] same day the hand of the Lord was upon me and He brought me there.
- American Standard Version - In the five and twentieth year of our captivity, in the beginning of the year, in the tenth day of the month, in the fourteenth year after that the city was smitten, in the selfsame day, the hand of Jehovah was upon me, and he brought me thither.
- King James Version - In the five and twentieth year of our captivity, in the beginning of the year, in the tenth day of the month, in the fourteenth year after that the city was smitten, in the selfsame day the hand of the Lord was upon me, and brought me thither.
- New English Translation - In the twenty-fifth year of our exile, at the beginning of the year, on the tenth day of the month, in the fourteenth year after the city was struck down, on this very day, the hand of the Lord was on me, and he brought me there.
- World English Bible - In the twenty-fifth year of our captivity, in the beginning of the year, in the tenth day of the month, in the fourteenth year after that the city was struck, in the same day, Yahweh’s hand was on me, and he brought me there.
- 新標點和合本 - 我們被擄掠第二十五年,耶路撒冷城攻破後十四年,正在年初,月之初十日,耶和華的靈(原文是手)降在我身上,他把我帶到以色列地。
- 和合本2010(上帝版-繁體) - 我們被擄的第二十五年,耶路撒冷城攻破後十四年,正在年初,某月初十,就在那一天,耶和華的手按在我身上,把我帶到那裏。
- 和合本2010(神版-繁體) - 我們被擄的第二十五年,耶路撒冷城攻破後十四年,正在年初,某月初十,就在那一天,耶和華的手按在我身上,把我帶到那裏。
- 當代譯本 - 在我們被擄的第二十五年,就是耶路撒冷淪陷的第十四年一月十日,耶和華的手按在我身上,祂帶我到了那裡。
- 聖經新譯本 - 我們被擄後第二十五年,耶路撒冷城被攻陷後第十四年的年初;那月的初十日,正當那日,耶和華的手按在我身上;他把我帶到那裡去。
- 呂振中譯本 - 我們流亡的第二十五年,年頭,那月之十日, 京 城被擊破之後十四年,正當那日,永恆主的手按在我身上;他把我帶到 目的地 那裏;
- 現代標點和合本 - 我們被擄掠第二十五年,耶路撒冷城攻破後十四年,正在年初,月之初十日,耶和華的靈 降在我身上,他把我帶到以色列地。
- 文理和合譯本 - 我儕被虜之二十五年、正月十日、城陷後十四年、是日耶和華感我、導我至此、
- 文理委辦譯本 - 我儕被擄之二十五年、正月十日、耶路撒冷城已陷十四年矣、斯時耶和華之神感我、恍惚中若睹異象、導我至以色列地、立於高岡、瞻彼南方、若有城郭之狀、
- 施約瑟淺文理新舊約聖經 - 我儕被擄後第二十五年、 耶路撒冷 城陷後十四年、年之初、月 月即正月 之十日、當是日主之神感我、攜至 以色列 地、
- Nueva Versión Internacional - Transcurría el año veinticinco del exilio cuando el Señor puso su mano sobre mí, y me llevó a Jerusalén. Esto sucedió al comenzar el año, el día diez del mes primero, es decir, catorce años después de la toma de Jerusalén.
- 현대인의 성경 - 우리가 포로 되어 온 지 25년째가 되고 예루살렘성이 함락된 지 14년째가 되는 해 월 10일에 내가 여호와의 손길을 느끼는 순간 여호와께서 나를 데리고 가셨다.
- Новый Русский Перевод - В двадцать пятом году нашего изгнания, в начале года, в десятый день месяца, в четырнадцатом году после падения нашего города , – в тот день рука Господа была на мне, и Он перенес меня туда.
- Восточный перевод - В десятый день месяца, в двадцать пятом году нашего изгнания, в начале года, в четырнадцатом году после падения нашего города (28 апреля 573 г. до н. э.), – в тот день рука Вечного была на мне, и Он перенёс меня в Исраил.
- Восточный перевод, версия с «Аллахом» - В десятый день месяца, в двадцать пятом году нашего изгнания, в начале года, в четырнадцатом году после падения нашего города (28 апреля 573 г. до н. э.), – в тот день рука Вечного была на мне, и Он перенёс меня в Исраил.
- Восточный перевод, версия для Таджикистана - В десятый день месяца, в двадцать пятом году нашего изгнания, в начале года, в четырнадцатом году после падения нашего города (28 апреля 573 г. до н. э.), – в тот день рука Вечного была на мне, и Он перенёс меня в Исроил.
- La Bible du Semeur 2015 - La vingt-cinquième année de notre captivité, au début de l’année, le dixième jour du premier mois , c’est-à-dire quatorze ans après la prise de la ville de Jérusalem, exactement le même jour, la main de l’Eternel se posa sur moi et il me transporta là-bas.
- リビングバイブル - 捕囚となって二十五年目、エルサレムが占領されてから十四年目の第一の月の十日、主の御手が私の上に置かれました。
- Nova Versão Internacional - No início do vigésimo quinto ano do exílio, no início do ano, no décimo dia do mês, no décimo quarto ano depois da queda da cidade, naquele exato dia a mão do Senhor esteve sobre mim e ele me levou para lá.
- Hoffnung für alle - Im 25. Jahr der Verbannung unseres Volkes, und zwar genau am 10. Tag des Neujahrsmonats, vierzehn Jahre nach der Zerstörung Jerusalems, wurde ich wieder vom Herrn ergriffen.
- พระคริสตธรรมคัมภีร์ไทย ฉบับอมตธรรมร่วมสมัย - ในวันที่สิบต้นปีที่ยี่สิบห้าซึ่งเราตกเป็นเชลยหรือปีที่สิบสี่หลังจากกรุงแตก ในวันนั้นพระหัตถ์ขององค์พระผู้เป็นเจ้าอยู่เหนือข้าพเจ้าและทรงนำข้าพเจ้าไปที่นั่น
- พระคัมภีร์ ฉบับแปลใหม่ - ในปีที่ยี่สิบห้าของการลี้ภัยของพวกเรา ตอนต้นปี ในวันที่สิบของเดือน ในปีที่สิบสี่หลังจากที่เมืองถูกยึด ในวันนั้นเองมือของพระผู้เป็นเจ้าสถิตกับข้าพเจ้า และพระองค์พาข้าพเจ้าไปยังเมืองนั้น
交叉引用
- Xuất Ai Cập 12:41 - Đúng vào ngày cuối của năm thứ 430, toàn thể quân đội của Chúa Hằng Hữu bắt đầu rời Ai Cập.
- 2 Các Vua 25:1 - Ngày mười tháng mười của năm thứ chín đời Sê-đê-kia trị vì, Vua Nê-bu-cát-nết-sa, nước Ba-by-lôn, đem quân tấn công Giê-ru-sa-lem. Họ đóng quân chung quanh thành và xây đồn lũy để chống phá tường thành.
- 2 Các Vua 25:2 - Giê-ru-sa-lem bị bao vây cho đến năm mười một đời Vua Sê-đê-kia trị vì.
- 2 Các Vua 25:3 - Ngày chín tháng tư của năm thứ mười một đời Sê-đê-kia cai trị, nạn đói trong thành ngày càng trầm trọng, thực phẩm không còn.
- 2 Các Vua 25:4 - Tường thành bị phá vỡ, tất cả binh lính đều bỏ chạy. Từ khi thành bị quân Ba-by-lôn bao vây, binh lính đều trông chờ đến đêm tối. Họ trốn qua cổng thành giữa hai bức tường phía sau vườn ngự uyển và chạy về hướng A-ra-ba.
- 2 Các Vua 25:5 - Một số quân Canh-đê đang vây thành đuổi theo và bắt kịp vua Giu-đa tại Đồng bằng Giê-ri-cô. Quân Giu-đa bỏ vua, chạy tán loạn.
- 2 Các Vua 25:6 - Sê-đê-kia bị bắt giải về Ríp-la để chịu xét xử trước mặt vua Ba-by-lôn.
- 2 Các Vua 25:7 - Người Ba-by-lôn đem các con Sê-đê-kia ra giết ngay trước mặt vua, rồi móc mắt vua và xiềng vua lại, giải về Ba-by-lôn.
- 2 Các Vua 25:8 - Ngày mồng bảy tháng năm, năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan, là tướng chỉ huy quân thị vệ Ba-by-lôn, đến Giê-ru-sa-lem.
- 2 Các Vua 25:9 - Viên tướng này đốt Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu, cung điện, và các dinh thự ở Giê-ru-sa-lem.
- 2 Các Vua 25:10 - Rồi ra lệnh cho quân đội phá đổ bức tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem.
- 2 Các Vua 25:11 - Nê-bu-xa-ra-đan bắt những người còn lại trong thành Giê-ru-sa-lem và những người đào ngũ đã đầu hàng vua Ba-by-lôn trước kia đem đi đày.
- 2 Các Vua 25:12 - Chỉ một số ít những người nghèo khổ nhất được để lại để trồng nho, làm ruộng.
- 2 Các Vua 25:13 - Người Canh-đê triệt hạ các trụ đồng trước Đền Thờ Chúa Hằng Hữu, cái Hồ đựng nước và chân Hồ, lấy đồng đem về Ba-by-lôn.
- 2 Các Vua 25:14 - Họ lấy nồi, xuổng, kéo cắt tim đèn, muỗng và tất cả những dụng cụ bằng đồng khác trong Đền Thờ,
- 2 Các Vua 25:15 - kể cả cái đĩa đựng than hồng và bát chén. Những món gì bằng vàng, bằng bạc, đều bị tướng chỉ huy thị vệ là Nê-bu-xa-ra-đan tóm thu cả.
- 2 Các Vua 25:16 - Không ai tính nổi số đồng họ lấy từ hai cây trụ, cái Hồ và chân Hồ trong Đền Thờ Chúa Hằng Hữu làm từ đời Sa-lô-môn.
- 2 Các Vua 25:17 - Về chiều cao của trụ, mỗi trụ cao đến 8,1 mét. Bên trên trụ có đầu trụ cũng bằng đồng, cao 1,4 mét. Quanh đầu trụ có lưới kết trái lựu đồng.
- 2 Các Vua 25:18 - Tướng chỉ huy thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt Thầy Thượng tế Sê-ra-gia, Phó tế Sê-pha-nia, ba người canh cửa đền thờ,
- 2 Các Vua 25:19 - một quan chỉ huy quân đội Giu-đa, năm người trong các cận thần của vua, thư ký của tướng chỉ huy quân đội phụ trách chiêu mộ quân lính trong nước, và sáu mươi thường dân tìm thấy trong thành,
- 2 Các Vua 25:20 - Quan chỉ huy vệ binh Nê-bu-xa-ra-đan giải họ đến cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la, thuộc Ha-mát.
- 2 Các Vua 25:21 - Vua Ba-by-lôn ra lệnh xử tử tất cả các nhà lãnh đạo Giu-đa ấy tại Ríp-la, xứ Ha-mát. Vậy, người Giu-đa bị lưu đày biệt xứ.
- 2 Các Vua 25:22 - Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn bổ nhiệm Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan làm tổng đốc cai trị những người còn lại trong nước Giu-đa.
- 2 Các Vua 25:23 - Nghe tin vua Ba-by-lôn phong Ghê-đa-lia làm tổng đốc, các quan chỉ huy quân đội phản kháng dẫn anh em binh sĩ đến Mích-pa gặp Ghê-đa-lia. Nhóm này gồm có Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, Giô-ha-nan, con Ka-rê-át, Sê-ra-gia, con Tan-hu-mết, ở Nê-tô-pha-tít, và Gia-xa-nia, con Ma-ca-thít.
- 2 Các Vua 25:24 - Ghê-đa-lia thề với nhóm quan và binh sĩ ấy như sau: “Anh em đừng sợ những viên chức người Canh-đê. Nếu anh em bằng lòng phục vụ vua Ba-by-lôn, anh em sẽ được ở lại trong nước bình an vô sự.”
- 2 Các Vua 25:25 - Nhưng bảy tháng sau, Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, cháu Ê-li-sa-ma, người thuộc hoàng tộc, dẫn theo mười người đến Mích-pa giết Ghê-đa-lia và tất cả người Canh-đê, cùng với người Do Thái đang ở với Ghê-đa-lia.
- 2 Các Vua 25:26 - Sau đó, các quan này cùng với những người Giu-đa khác sang Ai Cập tị nạn, vì sợ người Canh-đê.
- 2 Các Vua 25:27 - Vừa lên ngôi làm vua Ba-by-lôn, Ê-vinh-mê-rô-đác tha Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa ra khỏi ngục. Việc này xảy ra vào ngày hai mươi bảy tháng mười hai, năm thứ ba mươi bảy, tính từ lúc vua Giu-đa bị bắt.
- 2 Các Vua 25:28 - Vua Ba-by-lôn nói lời hòa nhã với Giê-hô-gia-kin, và cất nhắc người lên hàng cao trọng hơn các vua khác cũng đang bị giam giữ ở Ba-by-lôn với Giê-hô-gia-kin.
- 2 Các Vua 25:29 - Từ hôm ấy, Giê-hô-gia-kin không còn phải mặc áo tù nữa, nhưng mỗi ngày được ăn uống tại bàn của vua,
- 2 Các Vua 25:30 - được vua cấp dưỡng thức ăn đầy đủ hằng ngày cho đến khi qua đời.
- Ê-xê-chi-ên 11:24 - Sau đó, Thần của Đức Chúa Trời mang tôi trở về Ba-by-lôn, nơi dân chúng đang bị lưu đày. Và khải tượng tôi thấy về Giê-ru-sa-lem rời khỏi tôi.
- Giê-rê-mi 52:1 - Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi và trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Ha-mu-ta, con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na.
- Giê-rê-mi 52:2 - Nhưng vua làm điều ác trước mắt Chúa Hằng Hữu như Giê-hô-gia-kim đã làm.
- Giê-rê-mi 52:3 - Những việc này xảy ra vì Chúa Hằng Hữu nổi giận cùng người Giê-ru-sa-lem ra và Giu-đa, cho đến khi Chúa đuổi họ khỏi nơi Ngài ngự và đem họ đi lưu đày. Sê-đê-kia nổi loạn chống vua Ba-by-lôn.
- Giê-rê-mi 52:4 - Ngày mười tháng mười của năm thứ chín đời Sê-đê-kia trị vì, Vua Nê-bu-cát-nết-sa, nước Ba-by-lôn, đem quân tấn công Giê-ru-sa-lem. Họ đóng quân chung quanh thành và xây đồn lũy để chống phá tường thành.
- Giê-rê-mi 52:5 - Giê-ru-sa-lem bị bao vây cho đến năm mười một đời Vua Sê-đê-kia trị vì.
- Giê-rê-mi 52:6 - Ngày chín tháng tư của năm thứ mười một đời Sê-đê-kia cai trị, nạn đói trong thành ngày càng trầm trọng, thực phẩm không còn.
- Giê-rê-mi 52:7 - Tường thành bị phá vỡ, tất cả binh lính đều bỏ chạy. Từ khi thành bị quân Ba-by-lôn bao vây, binh lính đều trông chờ đến đêm tối. Họ trốn qua cổng thành giữa hai bức tường phía sau vườn ngự uyển và chạy về hướng A-ra-ba.
- Giê-rê-mi 52:8 - Nhưng quân Ba-by-lôn đuổi theo Vua Sê-đê-kia và bắt được vua trong vùng đồng bằng Giê-ri-cô, vì tàn quân đã bỏ vua chạy tán loạn.
- Giê-rê-mi 52:9 - Chúng giải vua về cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la trong xứ Ha-mát. Vua Ba-by-lôn xét xử và tuyên án Sê-đê-kia tại đó.
- Giê-rê-mi 52:10 - Vua bắt Sê-đê-kia chứng kiến cuộc hành hình các hoàng tử và tất cả quan chức của Giu-đa.
- Giê-rê-mi 52:11 - Chúng còn móc hai mắt Sê-đê-kia, xiềng lại bằng các sợi xích đồng, và giải về Ba-by-lôn. Sê-đê-kia bị giam trong ngục cho đến chết.
- Giê-rê-mi 52:12 - Ngày mười tháng năm, năm thứ mười chín đời Vua Nê-bu-cát-nết-sa trị vì, Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy thị vệ và là cận thần của vua Ba-by-lôn, đến Giê-ru-sa-lem.
- Giê-rê-mi 52:13 - Ông đốt phá Đền Thờ Chúa Hằng Hữu, cung điện, và tất cả nhà cửa tại Giê-ru-sa-lem. Ông phá hủy tất cả dinh thự trong thành.
- Giê-rê-mi 52:14 - Rồi ông giám sát cả đoàn quân Ba-by-lôn phá sập các thành lũy bao bọc Giê-ru-sa-lem.
- Giê-rê-mi 52:15 - Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy thị vệ, bắt lưu đày một số dân nghèo, cùng những người sống sót trong thành, những người đầu hàng vua Ba-by-lôn, và các thợ thủ công.
- Giê-rê-mi 52:16 - Nhưng Nê-bu-xa-ra-đan cho những người nghèo khổ nhất được ở lại trong Giu-đa để lo việc trồng nho và làm ruộng.
- Giê-rê-mi 52:17 - Quân Ba-by-lôn phá hai trụ đồng dựng ở lối vào Đền Thờ Chúa Hằng Hữu, chân đế bằng đồng, chậu bằng đồng gọi là Biển, và lấy tất cả khí cụ bằng đồng chở về Ba-by-lôn.
- Giê-rê-mi 52:18 - Chúng cũng khuân đi các thùng, xẻng, kéo cắt tim đèn, bồn, đĩa, và những khí cụ bằng đồng dùng trong việc dâng tế lễ trong Đền Thờ.
- Giê-rê-mi 52:19 - Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ hủy thị vệ, cũng đem đi các chén nhỏ, lư hương, chậu, nồi, chân đèn, đĩa, tách, và tất cả khí cụ bằng vàng ròng hay bạc.
- Giê-rê-mi 52:20 - Số lượng đồng của hai trụ, cái chậu Biển và cái đế gồm mười hai con bò đực rất nặng, không tính được trọng lượng. Những vật này được làm cho Đền Thờ Chúa Hằng Hữu trong thời Vua Sa-lô-môn.
- Giê-rê-mi 52:21 - Mỗi trụ đồng cao 8,1 mét, chu vi 5,4 mét. Trụ được làm rỗng ruột, dày gần 8 phân.
- Giê-rê-mi 52:22 - Mỗi đỉnh trụ có phần chạm trỗ dài 2,3 mét, chung quanh có mạng lưới và thạch lựu toàn bằng đồng.
- Giê-rê-mi 52:23 - Bốn phía trụ có 96 trái thạch lựu, và tổng cộng có 100 trái thạch lựu trên mạng lưới chung quanh đỉnh.
- Giê-rê-mi 52:24 - Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy thị vệ, bắt Thầy Thượng tế Sê-ra-gia, Thầy Tế lễ Sô-phô-ni, là phụ tá, và ba người gác cửa.
- Giê-rê-mi 52:25 - Trong số những người còn trong thành, ông bắt viên thái giám chỉ huy quân đội; bảy quân sư riêng của vua; trưởng thư ký của tướng chỉ hủy quân đội, người có trách nhiệm kêu gọi nhập ngũ trong nước; cùng sáu mươi thuộc hạ khác.
- Giê-rê-mi 52:26 - Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy thị vệ, giải tất cả người ấy đến Ríp-la, nộp cho vua Ba-by-lôn.
- Giê-rê-mi 52:27 - Vua Ba-by-lôn ra lệnh xử tử tất cả các nhà lãnh đạo Giu-đa ấy tại Ríp-la, xứ Ha-mát. Vậy, người Giu-đa bị lưu đày biệt xứ.
- Giê-rê-mi 52:28 - Số dân bị lưu đày sang Ba-by-lôn vào năm thứ bảy đời Nê-bu-cát-nết-sa trị vì là 3.023 người.
- Giê-rê-mi 52:29 - Vào năm thứ mười tám đời Nê-bu-cát-nết-sa, ông bắt thêm 832 người.
- Giê-rê-mi 52:30 - Năm thứ hai mươi ba đời Nê-bu-cát-nết-sa, ông sai Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy thị vệ, bắt thêm 745 người nữa—tổng cộng là 4.600 người bị bắt giữ.
- Giê-rê-mi 52:31 - Vào năm lưu đày thứ ba mươi bảy của Vua Giê-hô-gia-kin, nước Giu-đa, Ê-vinh Mê-rô-đác lên ngôi vua Ba-by-lôn. Vua ân xá cho Giê-hô-gia-kin và thả ra khỏi ngục vào ngày hai mươi lăm tháng chạp năm đó.
- Giê-rê-mi 52:32 - Vua chuyện trò với Giê-hô-gia-kin cách nhã nhặn và cho người ngai cao hơn các vua bị lưu đày khác trong Ba-by-lôn.
- Giê-rê-mi 52:33 - Vua cung cấp quần áo mới cho Giê-hô-gia-kin thay thế bộ áo tù bằng vải gai và cho người được ăn uống hằng ngày tại bàn ăn của vua trọn đời.
- Giê-rê-mi 52:34 - Vậy, vua Ba-by-lôn ban bổng lộc cho Giê-hô-gia-kin trong suốt cuộc đời ông. Việc này được tiếp tục cho đến ngày vua qua đời.
- Ê-xê-chi-ên 8:1 - Ngày năm tháng sáu năm thứ sáu đời Vua Giê-hô-gia-kim bị lưu đày, khi các lãnh đạo Giu-đa đang ở trong nhà tôi, tay Chúa Hằng Hữu Chí Cao đặt trên tôi.
- Khải Huyền 1:10 - Nhằm ngày của Chúa, tôi được Thánh Linh cảm và nghe có tiếng gọi sau lưng vang dội như tiếng loa:
- Giê-rê-mi 39:1 - Tháng mười năm thứ chín đời Vua Sê-đê-kia cai trị, Vua Nê-bu-cát-nết-sa dốc toàn lực tấn công và bao vây Giê-ru-sa-lem.
- Giê-rê-mi 39:2 - Hai năm rưỡi sau, vào ngày chín tháng tư, năm thứ mười một triều Sê-đê-kia, quân Ba-by-lôn công phá tường thành, và thành thất thủ.
- Giê-rê-mi 39:3 - Tất cả tướng lãnh Ba-by-lôn đều kéo vào và ngồi tại Cửa Giữa: Nẹt-gan Sa-rết-sê, người Sam-ga, Nê-bô Sa-sê-kim, quan chỉ huy trưởng, Nẹt-gan Sa-rết-sê, quân sư của vua, và các quan lớn khác.
- Giê-rê-mi 39:4 - Khi Vua Sê-đê-kia và toàn quân thấy quân Ba-by-lôn đã công phá vào thành, nên họ bỏ chạy. Họ đợi đến trời tối rồi trốn qua một chiếc cổng kín giữa hai bức tường thành phía sau vườn ngự uyển và hướng về Thung Lũng A-ra-ba.
- Giê-rê-mi 39:5 - Nhưng quân Canh-đê đuổi theo vua và bắt vua trong đồng bằng Giê-ri-cô. Họ đem vua về cho Vua Nê-bu-cát-nết-sa, nước Ba-by-lôn, tại Ríp-la, trong xứ Ha-mát. Vua Ba-by-lôn lập tòa án xét xử và tuyên án Sê-đê-kia tại đó.
- Giê-rê-mi 39:6 - Ông bắt Sê-đê-kia chứng kiến cuộc hành hình các hoàng tử và tất cả hàng quý tộc Giu-đa.
- Giê-rê-mi 39:7 - Họ móc cả hai mắt Sê-đê-kia, xiềng lại bằng các xích đồng, rồi giải về Ba-by-lôn.
- Giê-rê-mi 39:8 - Quân Ba-by-lôn đốt rụi Giê-ru-sa-lem, kể cả hoàng cung, và phá đổ các tường lũy bọc quanh thành.
- Giê-rê-mi 39:9 - Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy thị vệ, đưa đi lưu đày qua Ba-by-lôn tất cả số dân sống sót sau cuộc chiến tranh, kể cả những người đã đào ngũ theo ông ấy.
- Giê-rê-mi 39:10 - Nhưng Nê-bu-xa-ra-đan cho những người nghèo khổ nhất được ở lại trong Giu-đa, đồng thời cấp phát ruộng đất và vườn nho cho họ coi sóc.
- Giê-rê-mi 39:11 - Vua Nê-bu-cát-nết-sa ra lệnh cho Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy thị vệ, đi tìm Giê-rê-mi. Vua nói:
- Giê-rê-mi 39:12 - “Đưa người về và chăm sóc thật tốt, nhưng không được hãm hại, và cung cấp cho người bất cứ điều gì người muốn.”
- Giê-rê-mi 39:13 - Vậy, Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy thị vệ; Nê-bu-sa-ban, quan chỉ huy trưởng; Nẹt-gan Sa-rết-sê, quân sư của vua, và các quan tướng khác của vua Ba-by-lôn
- Giê-rê-mi 39:14 - sai người đem Giê-rê-mi ra khỏi ngục. Họ giao cho Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, săn sóc và đem người về nhà. Vậy, Giê-rê-mi ở lại trong Giu-đa sống chung với dân của mình.
- Giê-rê-mi 39:15 - Chúa Hằng Hữu ban một sứ điệp nữa cho Giê-rê-mi trong thời gian ông bị giam cầm:
- Giê-rê-mi 39:16 - “Hãy nói với Ê-bết Mê-lết người Ê-thi-ô-pi rằng: ‘Đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, phán: Ta sẽ làm cho thành này mọi điều mà Ta đã ngăm đe. Ta sẽ giáng họa, chứ không ban phước. Ngươi sẽ thấy nó bị hủy diệt,
- Giê-rê-mi 39:17 - nhưng Ta sẽ giải cứu ngươi từ tay những người mà ngươi rất sợ.
- Giê-rê-mi 39:18 - Vì ngươi đã tin cậy Ta, Ta sẽ giải cứu ngươi và bảo tồn mạng sống ngươi. Đó là phần thưởng Ta dành cho ngươi. Ta, Chúa Hằng Hữu, phán vậy!’”
- Ê-xê-chi-ên 29:17 - Ngày một, tháng giêng, năm thứ hai mươi bảy đời Vua Giê-hô-gia-kin bị lưu đày, Chúa Hằng Hữu truyền sứ điệp này cho tôi:
- Ê-xê-chi-ên 32:1 - Vào ngày một, tháng chạp năm thứ mười hai đời Vua Giê-hô-gia-kin bị lưu đày, Chúa Hằng Hữu truyền sứ điệp này cho tôi:
- Ê-xê-chi-ên 3:22 - Tay Chúa Hằng Hữu đặt trên tôi và phán: “Hãy dậy và ra ngoài đồng, Ta có lời dặn bảo con tại đó.”
- Ê-xê-chi-ên 37:1 - Tay Chúa Hằng Hữu đặt trên tôi và Thần của Chúa Hằng Hữu đưa tôi vào một thung lũng đầy xương khô.
- Ê-xê-chi-ên 3:14 - Thần đưa tôi lên cao và đem khỏi nơi đó. Tôi ra đi, tâm hồn đắng cay và rối loạn, nhưng tay Chúa Hằng Hữu đặt trên tôi thật mạnh mẽ.
- Ê-xê-chi-ên 1:2 - Việc này xảy ra vào năm thứ năm sau khi Vua Giê-hô-gia-kin bị lưu đày.
- Ê-xê-chi-ên 1:3 - (Chúa Hằng Hữu ban sứ điệp này cho Thầy Tế lễ Ê-xê-chi-ên, con Bu-xi, tại xứ Canh-đê, bên bờ Sông Kê-ba, và tại đó, tay Chúa Hằng Hữu đặt trên ông.)
- Ê-xê-chi-ên 32:17 - Vào ngày mười lăm, tháng chạp, Chúa Hằng Hữu lại truyền cho tôi một sứ điệp nữa:
- Ê-xê-chi-ên 33:21 - Vào ngày năm tháng mươi, năm thứ mười hai kể từ khi chúng tôi bị lưu đày, một người trốn thoát Giê-ru-sa-lem đến báo tin với tôi: “Thành đã sụp đổ!”